TMĐP- Con người công chính mà người môn đệ phải trở nên, là thương xót như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và luôn thương xót những thân phận bọt bèo, bị bắt nạt, trù giập, đàn áp.
Ở bất cứ thời nào trong lịch sử nhân loại, chuyện oan sai, oan trái vì xét xử bất công, vì quan tòa thiếu khách quan, công minh, liêm khiết đã làm đổ không biết bao nhiêu nước mắt của những nạn nhân vô tội, và thân nhân, gia đình của họ. Nỗi đau bị xử oan, bị chụp mũ, bị ép cung, quy tội, cũng như nỗi khổ bị hồ đồ luận tội, bị kết án sai lầm, oan uổng tưởng không có gì cay đắng, tàn nhẫn, phi nhân, và đáng căm phẫn, oán hận hơn.
Tin Mừng hôm nay đặt chúng ta trước nghĩa vụ cư xử công chính với mọi người, bằng sống công chính trước mặt Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế, Đức Giêsu không ngại vạch mặt “một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18,9). Nhưng ai là người tự hào cho mình là người công chính, và ai là người bị khinh chê?
Thưa người Pharisêu đã để lộ ra con người cao ngạo, kiêu căng của mình qua lời “cầu nguyện” đầy tự hào về các nhân đức và việc làm thánh thiện của ông ta, và để Chúa biết rõ mình là người công chính, ông Pharisêu đã tự cho mình “không giống như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế” tội lỗi đang xấu hổ đứng cuối đền thờ kia, cúi đầu, miệng thì thầm: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18, 11-13).
Nhưng kết quả phân xử của Thiên Chúa không như con người tưởng, vì dưới mắt Ngài: chỉ người thu thuế khiêm hạ biết mình là người tội lỗi mới được nên công chính, còn người Pharisêu kiêu căng, tự mãn trở về trắng tay (x. Lc 18, 14).
Như thế, sự công chính của chúng ta không hệ tại ở công trạng, công lệnh, công phúc của bản thân, nhưng do lòng thương xót của Thiên Chúa, do ơn sủng của Ngài làm cho nên công chính. Nói cách khác, sự công chính là đời sống thánh thiện như ý Chúa muốn.
Sách Huấn Ca cho chúng ta biết: Thiên Chúa là Đấng Công Chính, vì khi xét xử, “Người không thiên vị ai. Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của kẻ bị áp bức. Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa” (Hc 35,12-14), vì Thiên Chúa là Đấng “giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng”, nên “ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 33 5-7).
Thực vậy, đời sống thánh thiện mà Thiên Chúa đòi người Kitô hữu phải sống, con người công chính mà người môn đệ phải trở nên, là thương xót như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và luôn thương xót những thân phận bọt bèo, bị bắt nạt, trù giập, đàn áp.
Thánh Phaolô với kinh nghiệm truyền giáo đầy mình, đã chia sẻ với môn đệ Timôthê về nỗi khổ “chẳng có ai bênh vực” trước tòa, không người bênh đỡ khi bị thiên hạ quy chụp, cáo gian, và “mọi người đã bỏ tôi”, nhưng đồng thời thánh Tông Đồ củng cố niềm tin và lòng trông cậy, phó thác vào Chúa của Timôthê khi quả quyết: “Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc…” (2 Tm 4, 16-18)
Và như Đấng phân xử công chính, Đấng phán xét công bình, Đấng thưởng phạt công minh, Thiên Chúa “là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4,8), và như Đấng Cứu Độ từ bi nhân hậu, Ngài sẽ cứu và dẫn đưa chúng ta vào vương quốc của Người ở trên trời.
Jorathe Nắng Tím
