TMĐP- Người Kitô hữu chúng ta có đủ lý do để xúc động và tạ ơn Chúa, vì được thuộc về đoàn chiên của Đức Giêsu.
Tin Mừng chúa nhật này rất ngắn so với Tin Mừng của những chúa nhật khác, nhưng tràn đầy tâm huyết của Đức Giêsu và làm xúc động tâm hồn người Kitô hữu khi nghe Đức Giêsu tâm sự: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về”, và “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,16. 27-28).
Quả thực, không có người chăn chiên nào tuyệt vời như Đức Giêsu, “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11), Đấng “đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).
Trước hết, Ngài là Mục Tử của “đoàn chiên nhân loại”, vì toàn thể nhân loại là đối tượng của ơn cứu độ, bởi Chúa Cha đã không chỉ yêu một sắc dân, một quốc gia hay một thành phần được tuyển chọn nào đó, nhưng “yêu cả thế gian” và sứ vụ của Con Một Ngài là cứu cả nhân loại không phân biệt, loại trừ người nào (x. Ga 3,16-17).
Sách Tông Đồ Công Vụ đã làm chứng tính phổ qúat của đoàn chiên Đức Giêsu, qua công việc truyền giáo cho dân ngoại của hai ông Phaolô và Banaba, và trước “lòng ghen tức, phản đối” của những người Do Thái (x. Cv 13,45), hai ông đã mạnh dạn lên tiếng: Đáng lẽ “anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại”. Và kết qủa là “dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa …. Và Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy” (Cv 13, 46.48.49).
Thánh Gioan tông đồ trong sách Khải Huyền cũng cho chúng ta thấy hình ảnh phổ qúat của Giáo Hội Đức Giêsu: “Kìa một đòan người thật đông, không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7,9-10).
Thực vậy, Đức Giêsu mơ ước “sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16), và Mục Tử duy nhất ấy chính là Ngài, và đoàn chiên Ngià chăn dắt là toàn thể nhân loại của mọi thời, ở mọi nơi.
Là Mục Tử nhân lành, Ngài biết từng con chiên vì yêu chúng. Cũng vì biết được Mục Tử tha thiết yêu thương và tận tụy chăm sóc mà chiên lắng nghe và đi theo Mục Tử, như Đức Giêsu khẳng định: “Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10,5).
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu thiết lập một tương quan “yêu thương, tín nhiệm tuyệt đối “giữa Mục Tử và đoàn chiên, vì chỉ có tình yêu tuyệt đối tín nhiệm, tình yêu không vẩn đục bất cứ nghi ngờ, tính toán, so đo nào giữa Mục Tử và đoàn chiên, thì Mục Tử mới có thể sẵn sàng chết cho đoàn chiên được sống, và chiên mới có thể tin tưởng lắng nghe và đi theo Mục Tử đến cùng.
Vâng, người Kitô hữu chúng ta có đủ lý do để xúc động và tạ ơn Chúa, vì được thuộc về đoàn chiên của Đức Giêsu, bởi xưa kia, chúng ta vốn là dân ngoại; chúng ta có đủ lý chứng để đón nhận trọn vẹn niềm vui được kết hợp mật thiết trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành của chúng ta đã qủa quyết: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,29); chúng ta có đủ lý lẽ để hy vọng được “sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), vì chính Đức Giêsu, vị Mục Tử giàu lòng thương xót đã hứa với đoàn chiên của Ngài: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 28). Và hạnh phúc đích thực, không bao giờ phôi phai, vơi cạn, tàn úa của chúng ta là được mãi ở trong đoàn chiên của Đức Giêsu, là Mục Tử nhân lành và Thiên Chúa cứu độ giầu lòng thương xót.
Jorathe Nắng Tím