TMĐP- Chúa Giêsu, Đấng đã từ trời xuống thế làm người, và đã về trời trong vinh quang Thiên Chúa cho chúng ta ý thức ơn gọi vào đời và niềm hy vọng được ở với Chúa trên Thiên Đàng sau khi đã sống một đời yêu thương, phục vụ mọi người, như Chúa đã yêu thương, phục vụ và hiến mình cứu chuộc chúng con.
Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật chi tiết biến cố Đức Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ Ngài: “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,9-11).
Chiêm ngưỡng Đức Giêsu lên trời cùng với các môn đệ được phúc tận mắt chứng kiến, chúng ta không chỉ cùng muôn dân vỗ tay, cất tiếng reo hò mừng Thiên Chúa, vì “Ngài là Đấng Tối Cao, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu, Ngài ngự trên toà uy linh cao cả” (x.Tv 46), mà còn xác tín điều Chúa muốn dạy chúng ta phải sống và thực hiện, như sứ vụ của người môn đệ:
- Chúng ta được sinh vào thế giới với một ơn gọi:
Đức Giêsu đã xuống thế gian với ơn gọi thực thi thánh ý Chúa Cha bằng “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế và khiêm hạ vâng lời chết trên Thánh Giá” để cứu chuộc nhân loại (Pl 2, 7-8), vì “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Như Đức Giêsu, mỗi người được sinh vào đời cũng mang ơn gọi yêu thương của những đứa con được sinh ra bởi Thiên Chúa là Tình Yêu. Ơn gọi ấy Đức Giêsu đã khẳng định như một giới răn mới: “Thầy ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Ơn gọi yêu thương ấy soi dẫn và thúc bách chúng ta lên đường loan báo Tin Mừng Cứu Độ, làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Đức Giêsu (x. Mt 28,19), đồng thời nâng đỡ chúng ta trong các việc bác ái, phục vụ những người bất hạnh, đáng thương là việc làm của đức tin Kitô sống động (x. Gc2,14-26).
Ơn gọi yêu thương cũng là động lực giúp chúng ta tôn trọng vũ trụ Chúa đã dựng nên, trân quý muôn loài Thiên Chúa đã tạo dựng, vì tất cả đều là thụ tạo tốt đẹp của Thiên Chúa, mà con người được Thiên Chúa ký thác bổn phận trông nom, gìn giữ, bảo vệ và làm cho sinh sôi nẩy nở, tươi xinh, đẹp đẽ hơn (x. St 1,28-31).
Khi sống ơn gọi làm người, làm con Chúa bằng yêu thương tha nhân và trân qúy vũ trụ, vạn vật, chúng ta nhận được niềm vui của đời người, và hạnh phúc làm con cái Thiên Chúa, niềm vui và hạnh phúc đó do chính Chúa ban là ơn Bình An phục sinh của Ngài.
Đó là lý do hai thiên thần dưới hình dạng đàn ông mặc áo trắng đã nhắc các môn đệ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?” đang khi các ông đăm đăm nhìn lên trời phía Đức Giêsu đi”.
Nói với các môn đệ điều này qua miệng thiên thần, Đức Giêsu muốn chúng ta đừng quên ơn gọi ở trần gian của mình; đừng thờ ơ với việc thực thi ơn gọi yêu thương anh em và xây dựng, làm đẹp thế giới; đừng trốn tránh đời, xa lánh người vì kiêu căng, hay vì bất cứ mặc cảm nào, bởi lời hứa phần thưởng trên trời sẽ chỉ được thực hiện, nếu chúng ta đón nhận cuộc sống này với niềm hy vọng và tình yêu dâng hiến cho hết những người đang có mặt tại nơi đây, lúc này, và tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa bằng đi với Đức Giêsu trên đường Thánh Giá vì hạnh phúc đời đời của mình và mọi người, bởi trên con đường này, Ngôi Lời Thiên Chúa đã đi khi xuống thế làm người, và cũng chỉ bằng con đường này, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ đã thực thi trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, và được Chúa Cha tin vinh, như lời cầu nguyện của Ngài trước giờ lên đường đi chịu chết: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1). Giờ đã đến chính là cuối đường Thánh Giá, ở đó, Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá như tội phạm nguy hiểm.
- Cuộc đời người Kitô hữu có cùng đích là Thiên Đàng:
Người môn đệ ngước mắt dõi theo bóng Đức Giêsu, vì tin vào lời Thầy mình: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ. Thầy đi dọn chỗ cho anh em”. “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,2.3); người môn đệ đăm đăm nhìn lên trời, vì không quên lời Thầy hứa: “Anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ítraen” (Mt 19,28); người môn đệ để hồn bay lên cao, vì mơ ước phần thưởng thiên đàng Cha trên trời hứa ban cho những ai vì danh Ngài, mà bị người đời “sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5,12); và người môn đệ không muốn rời bỏ Thầy đang được cất lên vì thấy tên mình đã được Nước Trời khắc ghi (x.Lc 10, 20).
Như thế, người môn đệ Đức Giêsu có quê hương là Thiên Đàng, có cùng đích là Nước Trời, có điểm hẹn cuối đường đời là đời sau với hạnh phúc vĩnh cửu trong cung lòng Thiên Chúa, nên nghĩ gì, nói gì, làm gì trong cuộc sống này, kể cả vui buồn, sướng khổ, thành bại, sống chết ở đời này, người môn đệ đều quy hướng về tương lai hằng phúc trên trời, vì quê trời mới là quê hương vĩnh đời đời, quê hương trọn vẹn hạnh phúc, quê hương ấm áp, ngọt ngào yêu thương của họ, vì quê trời là vương quốc của Thiên Chúa, Đấng họ yêu mến, phụng thờ suốt hành trình cuộc đời ở trần gian khi sống ơn gọi người môn đệ, như sách Khải Huyền đã nói về họ: “Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế…”. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lơan lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; “Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị nắng măt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ” (Kh 8,9. 14-17).
Tóm lại, người Kitô hữu, môn đệ của Đức Giêsu không lẩn tránh cuộc đời, không chán đời, hận đời, nhưng yêu đời và gắn bó với cuộc đời, vì cuộc đời là nơi người môn đệ được sai đến để thực thi ơn gọi yêu thương, phục vụ con người. Chính trong cuộc đời, và với con người mà người môn đệ được mời gọi nên thánh, khi sống ơn gọi làm người, làm con Thiên Chúa. Vì thế, sẽ bất công và hồ đồ nếu lên án người Kitô hữu yếm thế, coi thường cuộc đời, xem nhẹ đời sống, đánh giá thấp con người, bởi sứ vụ của tất cả Kitô hữu là yêu mến và phục vụ con người, và không ngừng nỗ lực canh tân thế giới để kiến tạo một “trời mới, đất mới”, ở đó hạnh phúc của con người là vinh quang của Thiên Chúa.
Tuy vậy, hành trình đời sống của người môn đệ không dừng lại, và kết thúc ở cuộc sống trần gian, nhưng hành trình đời sống ấy tiếp tục đi vào đời sau, đến một cuộc sống mới bất diệt. Vì thế, ngay khi bước vào cuộc đời trần gian hữu hạn, niềm hy vọng vào một đời sau bất diệt, hằng phúc đã nhen nhúm nẩy mầm nơi người môn đệ, và ngay từ bước chân đầu đời làm con người, con Chúa, Thiên Đàng đã chớm nở trong tâm hồn người môn đệ Đức Giêsu, vì đó là quê hương, gia nghiệp, phần thưởng, và Đất mà Thiên Chúa hứa ban cho những ai tin vào Đức Giêsu, Thiên Chúa của sự sống, Đấng đã chết và đã sống lại từ cõi chết, để “những ai cùng chết với Người, sẽ cùng sống với Người; những ai kiên tâm chịu đưng với Người, sẽ cùng hiển trị với Người” (x. 2 Tm 2, 11-12), nên đường đời của người môn đệ có hướng lên cao, có điểm tới là Nước Trời, có cùng đích là Thiên Chúa, mà từ Ngài, người môn đệ được sinh ra và gọi vào đời.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã từ trời xuống thế làm người, và đã về trời trong vinh quang Thiên Chúa! Xin cho chúng con ý thức ơn gọi vào đời và niềm hy vọng được ở với Chúa trên Thiên Đàng sau khi đã sống một đời yêu thương, phục vụ mọi người, như Chúa đã yêu thương, phục vụ và hiến mình cứu chuộc chúng con.
Jorathe Nắng Tím