TMĐP- Người bé nhỏ, hèn mọn được Chúa đón nhận là người lớn nhất trong Nước Trời, vì họ luôn biết mình cần Chúa, biết mình không thể đứng vững nếu không có Chúa, biết mình có thể ngã bất cứ lúc nào nếu không nắm chặt bàn tay Chúa, biết mình không thể tồn tại nếu rời xa Chúa, biết mình không thể hạnh phúc nếu ở ngoài vòng tay yêu thương của Cha trên trời.
Nếu ngôn sứ Isaia trong Cựu Ước đã lớn tiếng kêu gọi những bàn tay rã rời hãy mạnh mẽ, những đầu gối bủn rủn hãy vững vàng, mắt người mù, tai người điếc hãy mở ra, kẻ què hãy nhảy như nai, người câm hãy reo hò, kẻ nhát gan, yếu đuối thôi đừng sợ (x. Is 35,3-6), “vì Thiên Chúa của anh em đây rồi… Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4), thì trong Tân Ước, chính Đức Giêsu đã công bố trước đám đông: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11).
Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, ai là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời?
Một cách gián tiếp, Đức Giêsu đã giới thiệu những kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời của Ngài cũng là những người đã được ngôn sứ Isaia kêu gọi: Đừng sợ, nhưng hãy vui lên!” qua câu trả lời cho các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 4-5), khi họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến, hay là chúng tôi phải đợi ai khác?” (Mt 11,3).
Như thế, người nhỏ nhất trong Nước Trời của Đức Giêsu là những người xấu số, kém may mắn, bị coi thường, bỏ rơi, khinh miệt dưới mắt người đời; là những nạn nhân đáng thương của thành kiến: bị Thiên Chúa phạt vì có tội như các môn đệ đã hỏi Đức Giêsu khi Ngài chữa một người mù từ lúc mới sinh: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu đã trả lời các ông: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 2-3).

Người nhỏ nhất trong Nước Trời còn là những người đói khát không của ăn thức uống, khách lạ không nơi trú ngụ, rách rưới, tù đầy không người thăm nuôi, an ủi, bệnh tật không thuốc men, không người chăm sóc, nhưng chính họ lại được Đức Giêsu nhận là “những anh em bé nhỏ nhất của Ta, và mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
“Làm như thế” theo Đức Giêsu là cho họ ăn uống, cho họ áo mặc, cho họ nơi tạm trú, đến ủi an, thăm viếng và chia sẻ với họ để làm vơi nỗi đau, nỗi buồn, nỗi khổ, nỗi tủi nhục của họ
Người nhỏ nhất trong Nước Trời cũng là những người “vất vả mang gánh nặng nề” đang chạy đến với Đức Giêsu để được Ngài cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng và học với Ngài, “vì Ngài có lòng hiền hậu và khiêm nhu” (x. Mt 11, 28-29).
Và sau cùng, người nhỏ bé nhất trong Nước Trời là người khao khát Lời Thiên Chúa, là “đám đông từ các thành đi bộ mà theo Đức Giêsu” (Mt 14,13), và ở luôn với Ngài đã ba ngày mà không có gì ăn (x. Mt 15, 32) đã được Ngài chạnh lòng thương và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ được no nê.
Tắt một lời, người nhỏ bé nhất trong Nước Trời là những con người bị đời coi thường, bị thiên hạ khinh chê, miệt thị. Họ là người đàn bà goá nghèo “đã rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào thùng tiền của Đền Thờ tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12,44); họ là những người tự nguyện coi mình như trẻ thơ trong khiêm tốn và lòng tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa yêu thương quan phòng (x. Mt 18,4).
Tóm lại, sở dĩ người bé nhỏ, hèn mọn dưới mắt người đời được Chúa đón nhận là người lớn nhất trong Nước Trời, vì họ luôn biết mình cần Chúa, biết mình không thể đứng vững, nếu không có Chúa, biết mình có thể ngã bất cứ lúc nào, nếu không nắm chặt bàn tay Chúa, biết mình không thể tồn tại, nếu rời xa Chúa, biết mình không thể hạnh phúc, nếu ở ngoài vòng tay yêu thương của Cha trên trời.
Ước gì không ai trong chúng ta quên mình luôn cần Chúa như con thơ cần tình thương của cha mình, để suốt đời, xin được hát mừng Chúa là “Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính, Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ” (Tv 145, 6-9), và “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135) với những ai bé nhỏ, hèn mọn luôn đặt tin tưởng ở Ngài.
Jorathe Nắng Tím




