Connect with us

Hi, what are you looking for?

Giáo hội

 HIỆP HÀNH BẰNG NHỮNG BƯỚC CHÂN BÉ NHỎ, ÂM THẦM | Chuỗi suy tư về “Hiệp Hành” | Bài 13

TMĐP- Ước gì trên đường Hiệp Hành, chúng ta biết cùng nhau thân thưa: “Xin thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5) như các thánh Tông Đồ đã xin với Đức Giêsu, để với đức tin nhỏ như hạt cải, hạt muối, chúng ta tín thác ở Chúa, phó thác tất cả những gì “mình là, mình có” vào lòng thương xót và sức mạnh đổi mới của Thiên Chúa, để có thể Hiệp Hành với mọi người.

Khi xuống thế làm người trên đất nước và giữa lòng dân tộc Ítraen, Đức Giêsu đã làm thất vọng phần đông người Do Thái, nhất là những chức sắc vị vọng trong đạo, ngoài đời, không chỉ vì đường lối của Tin Mừng Ngài rao giảng không phù hợp với ước mơ chính trị của họ, mà cả đối tượng của sứ vụ Ngài  thi hành theo ý Chúa Cha  cũng không đồng thuận với những gì họ khát khao, trông đơi.

Thực vậy, họ tưởng Ngài là Đấng Cứu Tinh quyền thế sẽ giải thoát họ khỏi tay thù địch  là đế quốc Rôma, giải phóng dân tộc và xây dựng một đế chế Ítraen  với thế lực bao trùm các dân nước, nhưng họ chỉ thấy một con người “hiền lành, khiêm nhường tận đáy lòng” (Mt 11,29), đơn sơ, nghèo khó đến nỗi  “con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20).

Họ nghĩ Ngài sẽ dấy binh khôi phục triều đại Đavít, tổ tiên Ngài, và làm vua trong vương quốc Ítraen mới, nên nhiều người, trong số có cả môn đệ Ngài đã rắp ranh tranh giành ngôi thứ (x. Mt 20,20-23), nhưng tất cả đều thất vọng khi nghe Ngài nói: “Ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ. Ai muốn đứng đầu thì phải làm đầy tớ” (x. Mt 20,26-27) và dứt khóat  trả lời quan tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36).

Họ mơ Ngài làm những việc cả thể lớn lao, vĩ đại cho thiên hạ bốn phương kinh sợ, khiếp vía Ítraen, nhưng  giấc mơ của họ tan thành mây khói khi thấy Ngài chỉ quanh quẩn với những người bị coi là vô tích sự, thành phần bất hảo, cặn bã đối với giáo hội, xã hội, lại còn công khai bênh vực đám “đầu trộm đuôi cướp” khi tuyên bố: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).

Họ muốn nghênh đón Đấng Thiên Chúa sai đến trong cung điện huy hoàng và  những bước chân uy nghi, hoành tráng với tiếng tung hô,  cờ bay ngợp trời, trống kèn vang rền, inh ỏi  đến “long trời lở đất”, nhưng không ai  có thể ngờ Ngôi Lời Thiên Chúa đã vào đời rất kín đáo, ẩn dật, bé nhỏ, đơn hèn ở hang lừa Bêlem, và tiến vào thành thánh Giêrusalem như Đức Vua “hiền hậu ngồi trên lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” ( Mt 21,5).

Như người Do Thái năm xưa, rất có thể chúng ta cũng đang có cùng ý nghĩ, ước mơ, đợi chờ và kế hoạch như họ trên đường Hiệp Hành; rất có thể chúng ta cũng  mơ Hiệp Hành là cơ hội biểu dương lực lượng, phô trương thành qủa, dằn mặt đối phương; và rất có thể chúng ta đang lập trình một công cuộc Hiệp Hành chỉ  bề ngoài mà thiếu bề trong, chỉ hình thức mà vắng bóng  tâm hồn, chỉ hô hào vang dội trên môi miệng  mà thiếu  sâu lắng của con tim, khi  bỏ quên hay cố tình giấu nhẹm những bước chân bé nhỏ làm thành con đường Hiệp Hành, những việc làm âm thầm làm nên công trình Hiệp Hành, những cố gắng lặng lẽ cho Hiệp Hành trổ sinh hoa trái ở những con người  rất nghèo hèn, yếu đuối, rất dốt nát, dại khờ, rất tầm thường, tội lỗi nhưng lại được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương và tin tưởng.

Sở dĩ chúng ta dám đoan chắc Đức Giêsu yêu thương và tin tưởng những con người này, vì trong lời giảng dạy và cuộc sống, Ngài luôn quan tâm đến họ.

Ngài quan tâm đến các em nhỏ ngây thơ, và bực mình nói với các môn đệ: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng” (Mc 10,14); Ngài quan tâm đến đôi bạn trẻ lúng túng, bấn loạn vì hết rượu giữa tiệc cưới, và đã làm phép lạ đầu tiên khi cho sáu chum nước lã biến thành rượu ngon ở Cana (x .Ga 2,1-11); Ngài quan tâm đến người đàn bà băng huyết mười hai năm bị xã hội và giáo hội liệt vào hạng ô uế đã lén sờ vào áo Ngài  khi nói với bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34); Ngài quan tâm đến đồng xu bé nhỏ của bà góa nghèo và bảo: “Mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ” mà dâng cúng cho Đền Thờ; “còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12,44); Ngài quan tâm đến người mẹ goá bụa ở Nain trên đường đưa xác con trai duy nhất ra nghiã trang và cho con bà sống lại (x. Lc 7,11-15); Ngài quan tâm người phụ nữ mang tiếng lăng loàn, đĩ thoã trong thành và chẳng ngại tuyên bố trước mặt những người khinh bỉ chị: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47); Ngài quan tâm người đàn bà ngoại tình bị bắt qủa tang và cứu chị khỏi án tử ném đá khi đặt những người bảo vệ Luật Môsê cách cực đoan, qúa khích trước một chọn lựa vô cùng khó đến nỗi họ phải lầm lũi rút êm khi nói với họ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7); Ngài quan tâm đến ông Dakêu, trưởng ban  thu thuế nổi tếng giầu có vì tham nhũng, hối lộ và  tự ý ngỏ lời  với ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” đang khi ông trèo lên cây sung để được nhìn thấy Ngài, vì muốn biết ngài là ai (x. Lc 19, 1-10); Ngài quan tâm đến bác nông phu vất vả việc đồng áng, đến chị em  đan dệt, may vá, thêu thùa khi giảng dạy lòng tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Cha Ngài (x. Lc 12,22-32); và đặc biệt Ngài quan tâm đến hat cải bé nhỏ được gieo trong vườn, “nó lớn lên  và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được” (Lc 13,19); quan tâm đến nắm men được “vùi vào ba thúng bột” và làm cho “tất cả bột dậy men” (Lc 13,21); đến những hat muối tí teo, nhưng nếu “muối mà nhạt đi, thì lấy gì ướp nó mặn lại được?” (Lc 14,34); đến ngọn đèn dầu đươc đặt trên đế để “soi chiếu cho mọi người trong nhà” (Mt 5, 15).

Tất cả những con người  trên đều là những người không mấy được xã hội, giáo hội  quan tâm, hoặc vì họ non dại, bệnh tật, nghèo hèn,  hoặc vì nhiều tai tiếng, tầm thường, tội lỗi; cũng như những nghề nghiệp, hoàn cảnh, và sự vật được kể trên không là đối tượng được nhiều người quan tâm, tìm kiếm. Trái lại tất cả những bé nhỏ, đơn hèn, tầm thường ấy đã được Đức Giêsu “để tâm, để mắt” đến, vì Ngài yêu thương những con người bé nhỏ, nâng niu những gì “mong manh dễ vỡ”, và thương xót những mảnh đời chẳng còn biết trông cậy vào ai.

Vì thế, con đường Hiệp Hành Giáo Hội đang đi  cần phải có những bước chân bé nhỏ của những con người bé nhỏ thường ngày bị  bỏ rơi, lọt sổ, vì thiếu họ,  Sứ Vụ của Hiệp Hành sẽ không còn ý nghĩa, bởi sứ vụ truyền giáo của Đức Giêsu  cũng là của Giáo Hội  hiệp hành chính là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18); công trình Hiệp Hành Giáo Hội đang nỗ lực phấn đấu xây dựng cần phải có những bàn tay gầy gò, tong teo, run rẩy của những con người từ lâu bị xếp vào thành phần mất sức lao động, không còn khả năng sản suất, sinh lợi cho xã hội, nếu không, ý nghĩa Tham Gia – Đóng Góp của Hiệp Hành sẽ không có nền tảng để  tồn tại, vì với Đức Giêsu, họ là những “anh em bé nhỏ nhất” của Ngài, đồng thời là những  công dân ưu tú  của Vương Quốc Thiên Đàng  (x. Mt 25, 31-46); sau cùng, công cuộc Hiệp Hành Giáo Hội đang quyết tâm thực hiện cần phải có trái tim Hiệp Thông của đoàn lũ rất đông gồm những người suốt đời bị ăn hiếp, bắt nạt vì chân chất, hiền lành; những người sầu khổ vì hoàn cảnh khó khăn, nghiệt ngã; những người chịu đủ mọi hiểu lầm, ganh ghét, đố kỵ, vu khống, trừng  phạt bất công vì Nước Trời; những người luôn là kẻ thua thiệt, lỗ lã, mất mát vì muốn sống tử tế, yêu thương anh em,  xây dựng hoà bình, bởi không có mặt đám đông  “thầm lặng” của  “Tám Mối Phúc Thật” này, con đường Hiệp Hành của Giáo Hội sẽ chẳng mang lại ơn ích thiêng liêng nào,  vì thiếu Hiêp Thông với đoàn thể những người tuy “vô danh tiểu tốt”, bị coi thường, bạc đãi,  nhưng lại được chính Thiên Chúa  ủi an, thương xót và hứa Nước Trời làm phần thưởng, gia nghiệp đời đời (x. Mt 5,1-12).

Ngoài ra, con đường Hiệp Hành của Giáo Hội đang đi còn cần đến “một thiểu số” mang tính quyết định, mà ít người quan tâm. Thiểu số ấy chính là con số  năm mươi người lành mà  Ápraham đã liều mạng “ra giá” với Thiên Chúa khi Ngài có ý tiêu diệt thành Xơđôm vì “tội lỗi của chúng qúa nặng nề!” (St18,20) khi thưa với Ngài: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ sao? Ngài làm như vậy, chắc  không được đâu” (St 18,24-25). Và ông đã kèo nài mặc cả, hạ giá xuống còn mười người lành, nhưng mười người cũng không kiếm ra, dù Thiên Chúa đã nhượng bộ và hứa: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá hủy Xơđôm” (St 18,32).

Thực vậy, khi đồng ý sẽ không thiêu hủy thành Xơđôm, một thành phố rất lớn, phồn hoa và đông dân, nhưng tội lỗi qúa nặng nề, nếu Ápraham tìm được mười người đạo đức, thánh thiện, Thiên Chúa muốn  cho chúng ta thấy sức mạnh của thiểu số người lành trong “liên đới, hiệp thông nài xin ơn thương xót của Thiên Chúa”.

Con số mười người thực rất ít ỏi, không đáng kể, khác gì hạt muối bỏ biển, nắm cát dưới lòng đại dương. Vì thế, không ai quan tâm, để ý, tìm đến với họ, bởi không ai ngờ thiểu số “không đáng kể” người lành vô danh ấy lại được giao sứ mệnh cứu đại đa số  tội nhân khỏi hình phạt kinh hoàng, khủng khiếp.

Ước gì trên đường Hiệp Hành, chúng ta biết cùng nhau thân thưa: “Xin thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5) như các thánh  Tông Đồ đã xin với Đức Giêsu, để với đức tin nhỏ như hạt cải, đức tin bé như hạt muối, chúng ta không cậy sức mình, nhưng tín thác ở Chúa, vì tin là phó thác tất cả những gì “mình là, mình có” từ quá khứ, hiện tại, đến tương lai và cả đời đời vào lòng thương xót và sức mạnh đổi mới của Thiên Chúa, bằng nhận mình là đầy tớ vô dụng chỉ biết làm công việc chủ giao phó (x. Lc 17,10), bởi chỉ với tâm tình của người tôi tớ bất tài, vô tích sự nhờ tin, chúng ta mới có thể   Hiệp Hành với mọi người, nhất là với những anh em kém may mắn, yếu đuối hơn chúng ta bằng  những bước chân bé nhỏ, âm thầm, khiêm hạ bên mọi người, mà không kiêu hãnh, ồn ào, phô trương, chen lấn, giẫm đạp, đẩy ra khỏi đường Hiệp Hành  những “anh em bé nhỏ nhất của Đức Giêsu” (x. Mt 25, 40).

Jorathe Nắng Tím 

Bài viết liên quan

Cảm thức

TMĐP- Hình ảnh Mẹ Việt Nam, cũng là hình ảnh người phụ nữ một đời chỉ biết hết mình, hết tình Hy Sinh: hy...

Mùa Phục Sinh

TMĐP- Xin cho chúng con “biết đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa” trên mọi nẻo đường, vì bất cứ ở đâu, và...

Giáo hội

TMĐP- Chiến thuật “Đánh lận con đen”. Vừa ở trong, vừa ở ngoài, nghĩa là tuyên bố ở trong Hội Thánh, nhưng không tuân...

Cảm thức

TMĐP- Mùa lễ tình nhân, chắc chắn những ai yêu nhau sẽ có quà cho nhau. Nhưng món quà quý giá nhất đó là...