TMĐP- Vấn đề của chúng ta là làm thế nào để phân định và nhân diện chính xác ai là ngôn sứ thật, và ai là ngôn sứ giả?
Trong lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc và lịch sử bản thân mỗi người đã có những lúc đen tối, mịt mùng, không đốm sáng chỉ đường, không cột mốc định vị; có những đoạn đường phải đi, nhưng hoàn toàn bế tắc, không lối ra, không phương hướng. Trong những tình huống hoàn toàn bất lực vì sức người có hạn, người ta tìm đến thần linh để xin được dẫn đường, chỉ lối. Và đó chính là lý do có mặt của những thầy bói toán, những cô đồng, bà cốt, hoặc được coi, hoặc tự nhận là những người được thần thánh chọn và sai đến nói với con người ý muốn của các vị.
Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa nói với con người, nhưng không nói theo kiểu bói toán, lên đồng, nhưng nói như một người cha với tình phụ tử, và ngôn sứ là người được Thiên Chúa chọn cũng chỉ nói với con người ý muốn thánh thiện của Thiên Chúa cho hạnh phúc của con người, vì Thiên Chúa là Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng và đến cùng.
Vì ranh giới giữa giả và thật quá mong manh, tinh vi, khó phân định, mà hiện tượng ngôn sứ giả ở đâu và thời nào cũng màu mỡ, được mùa, nên đã, đang và sẽ còn làm gục ngã không biết bao nhiêu tâm hồn ngây ngô, khờ dại.
Trước hết là hoạt cảnh các ngôn sứ thật – giả chống đối, lên án, đọ sức nhau trong Cựu Ước. Điển hình là khi hai vua Giuđa và Ítraen thỉnh ý Đức Chúa qua bốn trăm ngôn sứ được triệu tập: “Ta có phải đi đánh Ramốt Galaát hay là phải ngưng lại” (1V 22,6). Tất cả các ngôn sứ có mặt đều thưa: “Xin vua cứ lên, Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua.” Nhưng Giơhôsaphát, vua Giuđa nói: Ở đây không có ngôn sứ nào khác của Đức Chúa, để chúng ta nhờ ông thỉnh vấn cho hay sao?” Vua Ítraen trả lời Giơhôsaphát: “Còn một người nữa chúng ta có thể nhờ thỉnh vấn Đức Chúa được, nhưng tôi ghét ông ta, vì ông ta không hề tiên báo cho tôi điều lành, mà chỉ toàn điều dữ. Đó là Mikha giơhu, con của Gimla”. Vua Giơhôsaphát nói: “Đức Vua đừng nói như vậy”. Vua Ítraen gọi một hoạn quan tới và bảo: “Mau đưa Mikhagiơhu, con của Gimla, đến đây” (1V 22,6-9). Và ngôn sứ Mikhagiơhu, người bị vua Ítraen ghét vì chỉ nói toàn những điều chướng tai, xui xẻo đã nói ngược lại bốn trăm ngôn sứ kia, khi tuyên sấm: “Tôi đã thấy toàn thể Ítraen tán loạn trên núi như chiên không người chăn” (1V 22,17), và đúng như lời ngôn sứ Mikhagiơhu: vua Ítraen đã bị trọng thương khi ra trận, và “đến chiều thì vua chết; máu từ vết thương chảy cả vào lòng xe” (1V 22,35).
Điều cần ghi nhận ở đây là ngôn sứ của Thiên Chúa thì chỉ biết nói lời Thiên Chúa, bất kể Lời ấy làm vui lòng hay mất lòng người nghe, bất kể Lời ấy đem đến niềm vui hay gieo kinh hoàng, sợ hãi, vì sứ vụ của ngôn sứ là nói lên Lời Thiên Chúa muốn nói với dân Ngài. Chẳng thế mà ngôn sứ Giêrêmia đã không ngại lên án không chỉ hàng tư tế, luật sĩ,mục tử mà cả hàng ngôn sứ trong Ítraen đã không dám nói lên lời của Thiên Chúa khi tuyên sấm: “Hàng tư tế cũng chẳng thèm hỏi: ‘Đức Chúa ở đâu?’ Các chuyên viên Ldề Luật chẳng biết đến Ta, các mục tử thì chống lại Ta, còn ngôn sứ lại nhờ Baan mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự. Bởi vậy, Ta sẽ còn tố cáo các ngươi – sấm ngôn của Đức Chúa, tố cáo con cái các ngươi nữa” (Gr 2,8-9).
Như ngôn sứ Êdêkien, ngôn sứ Giêrêmia còn tố cáo nhiều ngôn sứ đã tự nhận mình là ngôn sứ, mà không hề được Thiên Chúa gọi và sai đi: “Ta đã không phái các ngôn sứ ấy đi, mà chúng lại chạy ! Ta đâu có bảo chúng , thế mà chúng lại nói tiên tri! “. Và “Đức Chúa phán với tôi: “Các ngôn sứ ấy đã nhân danh Ta mà tuyên sấm điều gian dối. Ta đã không sai chúng, không truyền lệnh cho chúng, cũng chẳng hề phán với chúng. Thị kiến gian dối, bói toán hão huyền, lòng dạ man trá; đó là những điều chúng tuyên sấm cho các ngươi. Vì thế, Đức Chúa phán thế này: Các ngôn sứ ấy tuyên sấm nhân danh Ta, nhưng Ta đâu có sai chúng. Chúng dám nói xứ này không gặp cảnh gươm đao, không lâm cơn túng đói; thế mà chính các ngôn sứ ấy vì gươm, vì đói sẽ phải diệt vong! Còn lũ dân đã nghe chúng tuyên sấm, sẽ bị quẳng xác ra ngoài đường phố Giêrusalem, mà chẳng được ai chôn cất.” (Gr 23,21; 14,14-16)
Ngôn sứ Mikha cũng nặng lời không kém khi tố cáo các ngôn sứ giả: “Đức Chúa phán thế này về các ngôn sứ đã làm cho dân tôi lầm lạc: Khi răng chúng cắn được cái gì thì chúng hô: “Bình an”, còn khi không ai bỏ gì vào miệng chúng, thì chúng lại mở cuộc thánh chiến tấn công họ” (Mk 3,5).
Tóm lại, lý do các ngôn sứ giả bị khiển trách, lên án chính là họ đã mê hoặc dân, không khẩn cầu, can thiệp cho dân, nhất là không cảnh báo, kêu gọi dân sám hối trở về với Thiên Chúa. Họ được ví như bầy sói như sấm ngôn của ngôn sứ Êdêkien: “Hỡi Ítraen, các ngôn sứ của ngươi giống như bầy sói ở giữa đống hoang tàn đổ nát”,”bởi vì ngươi đã dùng điều dối trá mà làm cho tâm hồn người chính trực phải buồn phiền, trong lúc Ta không muốn làm cho nó phải buồn phiền, bởi vì ngươi đã tiếp tay cho kẻ gian ác đến nỗi nó không từ bỏ con đường xấu xa của mình mà được sống” (Ed 13,4.22).
Đến thời Tân Ước, chính Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7,15), “sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người”. “Thật vậy, sẽ có những Kitô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể” (Mt 7,15; 24,11.24).
Ở thời đại chúng ta hôm nay, thời đại mà người ta muốn xóa hẳn tên Thiên Chúa và sự hiện diện yêu thương của Ngài trong thế giới và cuộc đời, thời đại mà Đức Giêsu đã báo trước, ở đó, “người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau”, ở đó “tội ác gia tăng, nên lòng mến của nhiều người sẽ nguội đi.” (Mt 24,10.12). Và đây chính là thửa đất tốt cho cỏ lùng “ngôn sứ giả”, là đất dụng võ hằng ước mơ của mê tín, dị đoan, chiêm tinh, bói toán, cầu cơ, lên đồng, phong thuỷ … như chúng ta đang tận mắt chứng kiến không chỉ ngoài đời, mà cả trong đạo.
Vấn đề của chúng ta là làm thế nào để phân định và nhân diện chính xác ai là ngôn sứ thật, và ai là ngôn sứ giả?
Quả thực không dễ chút nào, vì chính Đức Giêsu cũng đã cho chúng ta biết: ngôn sứ giả tinh ma, quỷ quái đến nỗi “lừa gạt được cả những người đã được tuyển chọn” (Mt 24,24). Những người được tuyển chọn là các Đấng Bậc đã được xức dầu thánh hiến để phục vụ Dân Chúa, là các vị chọn đời sống thánh hiến. Các vị vượt xa chúng ta, thế mà cũng không thoát cạm bẫy của ngôn sứ giả. Như thế mới biết công việc phân định không đơn giản, dễ dàng, nhưng đòi ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, mà bước thứ nhất phải làm để nhận được ơn khôn ngoan ấy, chính là tìm về nguồn măc khải là Lời Thiên Chúa.
Trước hết, để trả lời câu hỏi: qua sấm ngôn của các ngôn sứ, “làm sao chúng tôi biết được lời nào là lời Đức Chúa đã không phán?”, sách Đệ Nhị Luật đưa ra tiêu chuẩn phân định: “Nếu điều ngôn sứ nói nhân danh Đức Chúa không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không phải là lời Đức Chúa đã phán; ngôn sứ đã nói càn, anh em không phải sợ ngôn sứ ấy” (Đnl 18,21.22).
Ngôn sứ Giêrêmia trong cuộc tranh luận với ngôn sứ Khanangia cũng đồng tình với tiêu chuẩn trên khi nói: “Ngôn sứ nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời ngôn sứ ấy ứng nghiệm, ông mới được nhìn nhận là ngôn sứ Đức Chúa sai đến thật sự!” (Gr 28,9).
Nhưng không phải cứ sấm ngôn được ứng nghiệm là lời Thiên Chúa, và người tuyên sấm là ngôn sứ thật cả đâu, vì có những sấm ngôn ứng nghiệm, nhưng lại không phải là Lời và Ý Muốn của Thiên Chúa, vì ngôn sứ ấy không dẫn dắt dân đến việc thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đưa họ đến với các ngẫu thần như Đệ Nhị Luật đã làm sáng tỏ: “Nếu ở giữa anh em xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao, và nó báo trước cho anh em một dấu lạ hay một điềm thiêng, nếu dấu lạ hay điềm thiêng nó nói xảy ra, và nó bảo: “Chúng ta hãy theo và phụng thờ các thần khác”, những thần mà anh em không biết, thì anh em đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em là Đấng anh em phải theo; chính Người là Đấng anh em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng Người; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người” (Đnl 13, 2-5).
Như thế, tiêu chuẩn ứng nghiệm chưa phải là tiêu chuẩn có giá trị tuyệt đối, nhưng tiêu chuẩn “kính sợ, yêu mến hết lòng hết dạ, lắng nghe, phụng thờ Thiên Chúa và gắn bó mật thiết với Ngài” mới là tiêu chuẩn bảo đảm chắc chắn phân định của chúng ta là chính xác, vì Thiên Chúa có thể thử thách chúng ta bằng chính những sấm ngôn được ứng nghiệm từ miệng những ngôn sứ giả, bởi một khi đã “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Mt 22,37) như Đức Giêsu đã kêu gọi, chúng ta sẽ không kéo nhau đổ xô ra hoang địa tìm Thiên Chúa, vì người ta bảo: “Người ở trong hoang địa”, hay chen nhau chạy vào phòng kín, vì người ta bảo: “Kìa, Người ở trong phòng kín” (Mt 24,26), vì chúng ta đã ở trong Thiên Chúa khi yêu mến, gắn bó với Ngài, ở trong nhà Thiên Chúa, khi kính sợ, phụng thờNgài, ở trong cung lòng yêu thương của Thiên Chúa khi lắng nghe, tuân giữ lời Ngài, nên không ai, không sự gì có thể tách chúng ta ra khỏi Thiên Chúa, “cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 38-39), như thánh tông đồ Phaolô đã xác tin. Và đó mới chính là hoa trái đích thực mà Đức Giêsu đã nói đến khi cảnh giác các môn đệ Ngài về hiện tượng các ngôn sứ giả đội lốt chiên mà đến: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt” (Mt 7, 16-18).
Tuy thế, để ở lại mãi trong tình yêu Thiên Chúa, để sinh hoa kết trái trong tình yêu của Ngài, thì dù là ngôn sứ thật, hay Đấng Bậc cao trọng, chúng ta cũng phải ý thức những cơn cám dỗ bất trung, phản bội luôn rình rập tự do của mình, để tự nhắc nhở phải luôn sám hối trong từng hơi thở, và trở về trên từng bước chân. Đây chính là tiêu chuẩn tuy cuối cùng nhưng không kém quan trọng, vì không thiếu những ngôn sứ thật đã không đọc được những dấu chỉ của thời đại, không nhìn ra những nguy cơ, hiểm họa đang rình rập Dân Chúa, không cảm nhận niềm đau, nỗi khổ của đoàn chiên, nhất là không còn lửa tình yêu để dám nói lên điều Thiên Chúa muốn nói với Dân Ngài, và làm chứng lời Ngài là Tình Yêu Thương Xót.
Jorathe Nắng Tím
