TMĐP- Trong hoang địa của mùa chay tâm hồn, Đức Giêsu gọi đích danh mỗi người chúng ta và âu yếm hỏi, như đã gọi tên và hỏi tông đồ Phêrô năm nào ở Biển Hồ Tibêria, sau khi sống lại: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 16.17).
Chắc chắn hoang địa là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để Thiên Chúa nói với và đổi mới chúng ta, như Ngài đã mặc khải cho Ítraen rất nhiều điều kỳ diệu trên đường họ từ Ai Cập về Đất Hứa, nếu không, Đức Giêsu đã không mời gọi chúng ta vào hoang địa với Ngài những ngày này.
Trước hết, Đức Giêsu mặc khải sự có mặt và hoạt động tích cực của Chúa Thánh Thần trên hành trình đi theo Ngài, và trong suốt cuộc chiến cam go với ma quỷ của người môn đệ. Vì thế, chỉ một phút lãng quên hay cố tình chối bỏ ơn phù trợ và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, người môn đệ sẽ lập tức sai đường lạc lối, mất phương hướng và rơi vào cạm bẫy của thần dữ. Trái lại, trong mọi chọn lựa, cũng như biến cố, người môn đệ phải nép mình dưới bóng của Thần Khí ngay từ khởi sự cho đến hoàn thành, như Đức Giêsu từ phút đầu, đã “được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chiu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1).
Trong hoang địa, Đức Giêsu mặc khải sức mạnh cứu độ của Lời Chúa, sức mạnh mà bất cứ thế lực nào dù kinh thiên động địa, và thần sầu quỷ khốc đến đâu cũng không thắng nổi, với điều kiện người môn đệ không cà kê, tám chuyện, hay đôi co lý sự với “tên cám dỗ”, nhưng vắn tắt, ngắn gọn, và dứt khóat chấm dứt câu chuyện, cũng như thẳng thừng chối bỏ đề nghị của hắn bằng bám chặt vào sức mạnh của Lời Chúa như Ngài đã cắt ngang những mồi chài, ngon ngọt của quỷ bằng những “lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).
Trong hoang địa, Đức Giêsu mặc khải: Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con cái mình trong trận ác chiến với ma quỷ, nhưng bảo đảm chiến thắng oanh liệt cho những ai quyết tâm chọn một mình Ngài là Cứu Chúa, như “quỷ đã bỏ Người mà đi và các sứ thần tiến đến hầu hạ Người ” (Mt 4,11), khi Ngài nghiêm nghị xua đuổi chúng: “Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng : Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4, 10).
Trong hoang địa, Đức Giêsu không chỉ mặc khải, mà còn chữa lành bằng lấy khỏi chúng ta trái tim bằng đá đầy thủ đọan gian ác, đặc kín vô cảm, kiêu căng, ngột ngạt ám khí bạo lực, và ban cho chúng ta một qủa tim mới, biết thương xót, và hay chạnh lòng, như lời sấm của ngôn sứ Êdêkien: “Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi qủa tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ed 37,25-26).
Trong thinh lặng của tâm hồn và tĩnh lặng của hoang địa Đức Giêsu dạy người môn đệ biết cầu nguyện như ý muốn của Chúa Cha là “cầu xin cho cả những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44) , vì Cha trên trời “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 6, 45); đồng thời “đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy”, nhưng “hãy vào phòng, đóng cửa lại và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (Mt 6,5-6).
Trong hoang địa thanh vắng, Đức Giêsu đồng hành với những ai muốn đi theo làm môn đệ Ngài trên con đường tiến về Thánh Giá bằng tìm đến và chia sẻ những gì mình có, mình là với những anh em bé mọn nhất của Ngài là những người nghèo khổ, cơ nhỡ, vô gia cư, vô địa táng; những thân phận bị ruồng bỏ, miệt thị, bóc lột, chà đạp; những mảnh đời côi cút, vô vọng, chịu mọi oan uổng, bất công (x. Mt 25,34 – 40).
Trong hoang địa, Đức Giêsu không còn muốn giấu giếm chúng ta đòi hỏi quyết liệt, cũng là ước mơ cháy bỏng của Ngài ở người môn đệ, đó là “ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23).
Và cũng trong hoang địa của mùa chay tâm hồn, Đức Giêsu gọi đích danh mỗi người chúng ta và âu yếm hỏi , như đã gọi tên và hỏi tông đồ Phêrô năm nào ở Biển Hồ Tibêria, sau khi sống lại: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 16.17).
Jorathe Nắng Tím